Bài nổi bật
Tìm hiểu thêm về “khả năng phục hồi độc hại”
Mặc dù khả năng phục hồi rất hữu ích, nhưng đôi khi nó lại vượt quá giới hạn và gây hại cho sức khỏe thể chất và tinh thần của bạn.
Thế nào là khả năng phục hồi
Khả năng phục hồi (tiếng Anh: mental resilience) là khả năng của một người thích nghi, đối mặt và vượt qua những khó khăn, căng thẳng, tổn thương hay biến cố trong cuộc sống mà không để chúng làm suy sụp hoàn toàn tâm lý. Đây không phải là khả năng “miễn nhiễm” với nỗi đau, mà là sức mạnh nội tại giúp người ta đứng dậy sau những lần gục ngã.
Một số đặc điểm của người có khả năng phục hồi tốt:
- Biết điều tiết cảm xúc: Họ không để cảm xúc tiêu cực chi phối hoàn toàn, biết cách nhận diện – chấp nhận – và xử lý cảm xúc lành mạnh.
- Có thái độ tích cực: Dù đối mặt với thất bại hay mất mát, họ vẫn có niềm tin rằng mình có thể vượt qua và tương lai có thể tốt hơn.
- Tư duy linh hoạt và thực tế: Không bi quan hóa vấn đề, cũng không quá mơ mộng. Họ có khả năng nhìn nhận vấn đề rõ ràng và tìm ra cách giải quyết.
- Kết nối xã hội tốt: Họ biết tìm đến người thân, bạn bè hay chuyên gia khi cần giúp đỡ – vì hiểu rằng không cần phải vượt qua mọi chuyện một mình.
- Biết chăm sóc bản thân: Họ duy trì những thói quen lành mạnh như ngủ đủ, ăn uống khoa học, vận động, thiền định hoặc viết nhật ký.
- Có mục tiêu sống và ý nghĩa cá nhân: Điều này giúp họ có “điểm tựa” để tiếp tục bước đi khi cuộc đời trở nên khó khăn.
Trong cuộc sống hiện đại, con người phải đối mặt với nhiều biến cố bất ngờ như mất việc, thất tình, con cái hư hỏng, gia đình tan vỡ, nợ nần… Trước những biến cố đó có người gục ngã, lo âu, thậm chí trầm cảm. Thế nhưng, với nếu họ có khả năng phục hồi tốt, họ sẽ sớm lấy lại bình tĩnh, đánh giá lại kỹ năng bản thân và tìm hướng đi mới thay vì chìm đắm trong bi quan
Hay một đứa trẻ lớn lên trong hoàn cảnh gia đình nhiều xung đột, nếu có sự hỗ trợ tinh thần từ thầy cô hoặc người thân, có thể phát triển thành người mạnh mẽ, thay vì bị tổn thương kéo dài.
Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ định nghĩa khả năng phục hồi là “quá trình và kết quả của việc thích nghi thành công với những trải nghiệm khó khăn hoặc đầy thử thách trong cuộc sống, đặc biệt là thông qua sự linh hoạt về tinh thần, cảm xúc và hành vi cũng như khả năng điều chỉnh theo những yêu cầu bên ngoài và bên trong”.
Bạn có thể được cho là có khả năng phục hồi nếu bạn nhanh chóng phục hồi sau khi mất việc hoặc hiểu cách chăm sóc sức khỏe tinh thần của chính mình trong môi trường gia đình căng thẳng.
Vì vậy, đúng là khả năng phục hồi là một kỹ năng tốt và vô cùng cần thiết cho cuộc sống hiện đại. Thế nhưng gần đây tôi đã biết đến thuật ngữ “khả năng phục hồi độc hại” thông qua một bài đăng trên mạng xã hội của Tiến sĩ Aditi Nerurkar, một nhà nghiên cứu về căng thẳng tại Harvard. Trong bài đăng, Nerurkar nói rằng khả năng phục hồi độc hại là khi bạn vượt qua và phục hồi ngay cả khi bạn không nên, khiến bạn cảm thấy hoàn toàn căng thẳng và kiệt sức.
khái niệm “khả năng phục hồi độc hại” (Resilience Actually Toxic hay còn gọi là toxic resilience). Đây là một khái niệm phản biện lại việc ca ngợi hoặc đề cao sự kiên cường một cách thái quá, đến mức nó trở thành gánh nặng, che lấp những vấn đề hệ thống hoặc khiến người ta chấp nhận mãi những hoàn cảnh không lành mạnh.
“Toxic resilience” là gì?
Toxic resilience xảy ra khi một cá nhân (hoặc cộng đồng) bị ép hoặc tự ép bản thân phải kiên cường, phải chịu đựng mãi, mà không được phép mệt mỏi, tổn thương hay phản kháng. Dưới danh nghĩa “kiên cường”, người ta:
- Tiếp tục chịu đựng môi trường độc hại (gia đình, công việc, xã hội) mà không được hỗ trợ hoặc thay đổi.
- Không được phép yếu đuối, không được buông xuôi, không được than phiền – vì điều đó bị coi là “thiếu nghị lực”.
- Bị ngưỡng mộ sai cách – ví dụ: “Cô ấy giỏi quá, một mình gồng gánh gia đình mà không than thở gì cả!” – trong khi đó là kiệt sức, không phải sức mạnh.
Khi nào sự phục hồi trở nên độc hại?
Khả năng phục hồi trở nên độc hại khi chúng ta cố gắng chịu đựng những tổn thương vượt quá khả năng của mình vì những thành kiến, định kiến của bản thân hay xã hội.
Ví dụ: Một người mẹ đơn thân gồng mình nuôi con, không dám nói mình mệt vì sợ bị đánh giá là yếu đuối, dù đã kiệt sức. Điều này dẫn đến việc bản thân trở nên quá mệt mỏi, dẫn đến trầm cảm. Hay một nhân viên trong môi trường làm việc độc hại vẫn tiếp tục cống hiến, tự hào vì “mình chịu được áp lực cao”, dù môi trường đó bóc lột và không công bằng.
Meghan Watson , người sáng lập kiêm giám đốc lâm sàng của Bloom Psychology & Wellness tại Toronto, cho biết: “Tôi không nghĩ khả năng phục hồi là điều xấu. Tôi tin rằng điều quan trọng là phải chịu đựng sự khó chịu và quản lý điều mà sự khó chịu tác động đến hoạt động hàng ngày của chúng ta”
Nhiều người đã sử dụng “khả năng phục hồi” để vắt kiệt sức mình, hay tự lừa dối mình, bắt nạt bản thân để làm nhiều hơn hoặc để trở thành một điều gì đó “to lớn” hơn. Và nếu bạn đang làm điều này thì đây chính là khía cạnh “độc hại” của sự phục hồi.
Dưới đây, các nhà trị liệu chia sẻ ý nghĩa và dấu hiệu cho thấy bạn đang sử dụng khả năng phục hồi một cách độc hại
Khả năng phục hồi độc hại là sản phẩm phụ của văn hóa hối hả
Danica Harris , một nhà trị liệu và huấn luyện viên thể chất có trụ sở tại Texas, cho biết: “Rất nhiều người sẽ làm việc vượt quá giới hạn chịu đựng của họ. Rất nhiều người sẽ thúc đẩy, thúc đẩy và thúc đẩy bản thân để trở nên kiên cường hơn” .
Chúng ta sống trong một xã hội đề cao chủ nghĩa hoàn hảo và đề cao thói quen thúc đẩy-thúc đẩy-thúc đẩy, Harris lưu ý. “Bạn được coi là thành công hơn — thậm chí có giá trị hơn — nếu bạn có thể làm nhiều hơn. Và tôi nghĩ điều đó dẫn đến rất nhiều sự kiệt sức”, cô nói.
Nhà trị liệu cũng cho biết, thay vì nghỉ ngơi và tạm dừng mọi chuyện lại để thư giãn và làm bản thân bớt mệt mỏi thì “khả năng phục hồi độc hại” lại khuyến khích, thúc ép bạn phải cố gắng hơn để vượt qua, hoặc làm tốt hơn. Vởi vì có một số niềm tin rằng nếu tiếp tục, mọi thứ sẽ tốt hơn.
Và đôi khi khả năng phục hồi độc hại dẫn đến kết quả tốt, Harris nói. Ví dụ, điều này có thể là thăng chức hoặc tăng lương. Nhưng điều đó vẫn không khiến nó trở thành cách công bằng để đối xử với cơ thể và tâm trí của bạn.
Khi sự mạnh mẽ trở thành cái cớ để trốn tránh chính mình
Khả năng phục hồi đôi khi trở thành một cách để chúng ta tách rời khỏi cơ thể mình – một phản ứng tự nhiên khi phải đối mặt với những tình huống khó khăn.
Khi bạn liên tục thúc ép bản thân phải “làm hết mọi việc” – làm thêm giờ không ngừng, ôm đồm việc nhà, tham gia mọi cuộc gặp gỡ xã hội – đó có thể chỉ là cách để bạn đánh lạc hướng bản thân khỏi những gì mình đang thực sự đối mặt trong lòng, hoặc những điều đang xảy ra ngoài kia.
“Nếu tôi cứ tiếp tục bận rộn, tôi sẽ không phải cảm nhận cơ thể mình. Tôi có thể tạm ‘thoát xác’, không cần đối diện,” chuyên gia Harris chia sẻ.
“Trạng thái đóng băng chức năng – làm việc như một cái máy mà không cảm xúc – có liên hệ rất chặt với sự phục hồi độc hại. Bởi vì, nếu tôi chậm lại, tôi sẽ buộc phải nhìn thẳng vào thực tại. Tôi sẽ phải cảm nhận cảm xúc của mình.”
Harris nói thêm: “Tôi có thể nhận ra rằng mình đang sống một cách tách biệt khỏi cơ thể – rằng tôi đang phớt lờ nhu cầu thực sự của nó. Và đó mới là tác động thực tế của sự phục hồi độc hại.”
“Bạn đang làm tổn thương cơ thể, làm tổn hại tinh thần, làm mệt mỏi tâm hồn – rốt cuộc là vì điều gì?” – bà đặt câu hỏi.
Có thể bạn đang cố gắng để thăng tiến trong công việc, hoặc để đứng đầu trong lớp – những mục tiêu rất đáng khen.
“Nhưng chúng ta cũng cần cân nhắc giữa những kết quả tích cực đó với cái giá mà chính bản thân mình phải trả,” Harris nói.
“Bạn có thể làm việc 14 tiếng mỗi ngày, nhưng bạn có đang chăm sóc cơ thể không? Bạn có vận động không? Uống đủ nước không? Có những mối quan hệ thân thiết để chia sẻ và tựa vào? Hay bạn đang thấy mình cô đơn?”
Harris nhấn mạnh: “Đúng là bạn có thể hoạt động vượt công suất – nhiều người, đặc biệt là những người từng trải qua sang chấn, đều như thế. Nhưng điều quan trọng là bạn phải nhận ra chính bạn cũng là một người xứng đáng được chăm sóc.”
“Khi sự phục hồi độc hại hiện diện, chúng ta đang bỏ qua chính mình, lặp đi lặp lại,” bà kết luận.
Khả năng phục hồi không phải là chấp nhận chịu đựng bất công
Bạn không cần phải chịu đựng những tình huống bất công – đó không phải là khả năng phục hồi, mà là một phản ứng sang chấn.
“Tôi nghĩ đôi khi từ ‘khả năng phục hồi’ (resilience) bị hiểu sai… Người ta thường nghe thấy từ đó là nghĩ ngay: ‘À, mình chỉ cần chịu đựng. Mình chỉ cần cố gắng vượt qua.’ Nhưng tôi muốn tách khỏi suy nghĩ rằng resilience là sự chịu đựng kéo dài. Không phải. Resilience thực sự là một thứ sâu hơn nhiều,” chuyên gia Watson nói.
Ví dụ, nếu bạn là cha mẹ và luôn phải dạy con mình “im lặng chịu đựng” khi bị thầy cô thiên vị hoặc bạn bè bắt nạt ở trường, bạn có thực sự đang dạy con khả năng phục hồi không?
Hay đó chỉ là một cách phản ứng trước tổn thương, là cách để con bạn học cách “sống sót” trong một môi trường bất công mà không có công cụ để thay đổi nó?
“Tôi nghĩ trong những bối cảnh như vậy, khái niệm về khả năng phục hồi trở nên phức tạp hơn rất nhiều,” Watson chia sẻ.
Resilience không nên là thứ gì đó cứng nhắc, cũng không phải phản xạ tự động. Nó cần phải linh hoạt và thích nghi được với hoàn cảnh mới.
Watson so sánh khả năng phục hồi với việc tập thể hình. Khi bạn tập luyện một thời gian mà cơ bắp không còn phản ứng với bài tập cũ nữa, bạn phải tăng độ khó để tiếp tục phát triển. Nhưng điều đó không có nghĩa là mọi sự đau nhức sau tập đều tốt, hay mọi sự đau đớn đều có ý nghĩa.
“Bạn cần tự hỏi bản thân rằng: mình có thật sự cần phải khó chịu như vậy để trưởng thành không? Nếu không, vậy thì rốt cuộc bạn đang chống lại điều gì? Bạn đang cố gắng vì điều gì?” – Watson đặt vấn đề.
Bạn không nên cứ mãi “kiên cường” trong một hoàn cảnh khiến cuộc sống trở nên khó khăn hơn, hay khiến một tình huống tồi tệ kéo dài thêm.
Vì như vậy không phải là khả năng phục hồi, mà là một gánh nặng không công bằng.
Khả năng phục hồi thực sự không phải là ép mình đến giới hạn
“Tôi muốn giúp thân chủ của mình đạt đến một trạng thái gọi là khả năng phục hồi gắn với cơ thể (embodied resilience) – tức là khả năng chăm sóc bản thân từ bên trong, thay vì cố gắng sống theo một định nghĩa resilience do người khác áp đặt,” Harris chia sẻ.
Và định nghĩa đó có thể khác nhau với mỗi người.
“Khả năng phục hồi gắn với cơ thể là: cơ thể tôi cần gì? Và tôi sẽ chăm sóc nó ra sao để tiếp tục bước đi?” – Harris nói.
“Sự khác biệt giữa một người bị nói là: ‘Cô ấy kiên cường vì cô ấy làm việc quá sức,’ so với: ‘Cô ấy kiên cường vì biết chăm sóc bản thân,’ thật ra là một hành trình hoàn toàn khác – và kết quả cuối cùng chính là sự lành mạnh của bạn,” cô nói thêm.
Khi hướng đến khả năng phục hồi đúng nghĩa, Harris khuyên mỗi người nên tự hỏi:
“Tôi có thể làm gì trong khả năng của mình? Tôi đang cần điều gì để vượt qua lúc này?”
Ví dụ, nếu bạn cảm thấy kiệt sức và không muốn đi làm, thay vì nghỉ hẳn, bạn có thể thương lượng với bản thân bằng cách làm việc tại nhà, hoặc mặc đồ thoải mái đến công sở.
“Với tôi, đó chính là khả năng phục hồi gắn với cơ thể – là việc hỏi: ‘Tôi cần gì để vượt qua hôm nay?’ – thay vì toxic resilience, vốn chỉ là: *‘Làm sao để im lặng mà chịu đựng?’” – Harris kết luận.
